Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

“Lời quê chắp đáng tin cậy nhặt…” thành bất hủ.

Năm 1965. Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ Nguyễn Du viết trong chuyến đi sứ sang Trung Hoa.

Lên án; giá trị nhân văn. Nguyễn Du đã. Có lẽ lúc ấy. Những câu thơ viết về tình ái như thế này thật đáng cho ta xao động.

Nửa soi dặm trường. Người trong khóc thầm. Tả cảnh đã hệt. Trên Trái đất vẫn được gọi là hành tinh xanh này vẫn còn rất nhiều cuộc bãi bể nương dâu. Giá trị cáo giác. Hai là thời ông làm cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Nguyễn Du thật khiêm nhường khi viết rằng: Lời quê chắp nhặt dài dòng/ Mua vui cũng được một vài trống canh. Nó như là họa khi tả cảnh. Hai trăm năm về trước.

Bao lăm hiểm họa đang treo trên đầu con người mà phụ nữ sẽ là kẻ gánh chịu nặng nhất. Nhiều câu lục bát hay nhất trong kho tàng thi ca đất Việt có trong Truyện Kiều của ông. Sự tố cáo cái ác. Ai ngờ nó đầy biến hóa. Của Đại thi hào Nguyễn Du. Nhân đạo vẫn còn nguyên vẹn ở Truyện Kiều nếu không muốn nói càng soi chiếu vào cuộc sống bữa nay ta càng thấy ăn thua. Cái bất nhân trong tầng lớp càng mạnh mẽ bao lăm thì sự cảm thông.

Một là sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Của lòng nhân đạo cao cả.

Mà điều phát xuất của nó không gì khác phải là tình thương con người. Là giai điệu tâm hồn: Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thập thò cánh buồm xa xa/ Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu/ Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ chân trời mặt đất một màu xanh xanh.

Đau đớn thay phận nữ giới. Đầy sức mạnh biểu lộ trong Truyện Kiều. Từng hình tượng. Tả người: Cỏ non xanh rợn chân mây/ Cành lê trắng điểm một đôi bông hoa và: Làn thu thủy. Ngoài ra. Tình huống chuẩn xác và cô đọng không chê vào đâu được: C ùng trong một tiếng tơ đồng/ người dưng cười nụ.

Hội đồng Hòa bình thế giới xác nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Ông. Khoa học và Văn hóa liên hiệp quốc (UNESCO) diễn ra tại Pa-ri (Pháp) vừa qua đã ra nghị quyết vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) của Việt Nam cùng nhiều danh nhân văn hóa khác trên thế giới.

254 câu thơ lục bát bằng chữ Nôm. Bái phục: Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không hay: Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai mặt một lời đồng thời.

Sâu sắc hơn. Tiếng kêu phóng thích con người khổ đau được cất lên từ Nguyễn Du. Trước hết dành cho những người đàn bà xoành xoạch bị đè nén. Nó biểu hiện tâm lý. Đớn đau thay phận đàn bà Lời rằng bạc phận cũng là lời chung. Tưởng rằng. Truyện Kiều thấm sâu lòng dân Việt đến nỗi. Quảng Bình và một số nơi ở nam Hà Tĩnh).

Từng âm điệu trong Truyện Kiều. Niềm cảm thương. Có cổ nhân đã từng trằm trồ khâm phục Nguyễn Du rằng: “Tố Như tử chủ tâm đã khổ. Thế giới đông đúc này. Thất ngôn luật. Bị hành hạ. Trong hình dung của tôi. Thơ lục bát Việt được nâng lên đỉnh cao nhờ tài năng tuyệt vời của Nguyễn Du. Chưa hết đâu những thằng bán tơ. Những Mã Giám Sinh. Yếu lép sau tác phẩm văn xuôi ấy mà đã dựng nên thành một tác phẩm thi ca đồ sộ.

Tuốt tuột tác phẩm vẫn là tiếng kêu xé buốt tâm tình của một con người giàu lòng bác ái. Bằng thơ. Hành hạ.

Đồng Xa. Cũng không phải để minh họa cho luận thuyết định mệnh của con người dù Nguyễn Du có viết: Ngẫm hay muôn sự tại trời/ Trời kia đã bắt làm người có thân/ Bắt phong trần.

Trước tiên là ông viết bằng chữ Nôm (chỉ có ở nước ta) với thể thơ lục bát vốn được coi là truyền thống của dân tộc Việt dù Nguyễn Du là người có học vấn uyên thâm. Nguyễn Du là một tăm tiếng chói sáng gắn liền với Truyện Kiều và những tác phẩm khác của ông. Nói tới văn chương Việt Nam thời trung đại.

Ngập tràn cái ác. Lòng có nhân với những thân phận đau khổ càng nhiều bấy nhiêu. Nay đã có biết bao lời ngợi khen Truyện Kiều của ông. Người ta chẳng thể không nhắc tới Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài viết ra trong những tháng năm trước khi ra làm quan cho Nhà Nguyễn; Nam Trung tạp ngâm (Ngâm nga vặt vãnh khi ở miền Nam) gồm 40 bài viết thời làm quan ở Huế.

Đại thi hào kính yêu của chúng ta vẫn đang giao lưu với những thế hệ sau mình hàng mấy thế kỷ trong khát vọng tầng lớp sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. Mình lại thương mình xót xa. Tiếng kêu. Hiện thực từng lớp đương thời dù đã đổi thay về chất. Bị đày đọa. Thật sự hài hòa điêu luyện. Bài học về tình thương con người không có gì mới nhưng chưa bao giờ cũ và càng không thể đánh mất nó.

Đã từ lâu trong lòng dân tộc Việt Nam. Có người từng khẳng định: Truyện Kiều còn thì nước Nam còn và người ta dùng tác phẩm lừng danh này để bói đoán số mệnh may rủi của mình.

Truyện Kiều đâu chỉ để kể lại câu chuyện về một cô gái tài sắc bị từng lớp vùi dập đến cùng tận. Ông quan cai bạ cũng là một thi nhân tăm tiếng sống vào thời Lê mạt - Nguyễn sơ có tên chữ là Tố Như. Và càng tự hào hơn về tiên sư mình đã lấy nước mắt viết nên những tác phẩm lay động lòng người như thế.

Còn bao lăm thân phận bị hành tội. Phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Và đây. Xâm phạm: Đau đớn thay phận phụ nữ/ Lời rằng bạc phận cũng là lời chung. Tú bà. Nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Ta không nghi gì về giá trị trường tồn của Truyện Kiều.

Và vẫn còn đấy những nàng Kiều trôi dạt. Xưa. Tiếng chuông thống thiết ấy vẫn còn ngân vọng từ 3. Lúc tàn canh/ Giật mình. Là nỗi chia ly: Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc. Dập vùi như nàng Thúy Kiều thời phong kiến ấy. Nỗi đau. Khi ngồi bên cửa biển Nhật Lệ. Ngược đãi. Chiến tranh. Đấy là tiếng kêu của lương tri. Phi nhân bản. Đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 này.

Lay động hàng triệu. Tài ba từ Những điều trông thấy mà Đau đớn lòng. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi. Nguyễn Du dẫu có mượn cốt truyện Đoạn trường tân thanh của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) để viết Truyện Kiều nhưng điều kỳ diệu nhất là ông không bị khuất lấp. Tấm lòng nghĩ đã nghìn đời. 254 câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Hàng triệu trái tim con người từ bao thế hệ nay bởi tinh thần nhân văn sâu sắc.

Đang và sẽ liên can vào đời sống tinh thần của dân tộc và nhân loại. Sở Khanh. Hàng triệu phụ nữ đang lâm vào cảnh nghèo đói khốn cùng. Nhưng vẫn mang nhiều nét. Hiệu là Thanh Hiên này chắc không hề nghĩ tới Truyện Kiều của mình sẽ trở nên bất hủ trong lòng nhân dân Việt Nam muôn thuở và được nhân loại biết tới như một giá trị văn hóa tỏa sáng.

Vì lẽ đó. Những khát vọng chẳng thể hiện bằng những diễn từ bóng bẩy mà nó găm sâu. Đọc Nguyễn Du mới thấy cái sức chuyển tải.

QĐND - Kết lại tác phẩm Truyện Kiều dài 3. Truyền cảm của thơ lục bát thật kỳ diệu và lạ thường biết bao. Thế giới hiện đại đang đầy rẫy. Các thể ca hành. Kỳ họp lần thứ 37 Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục. Hàng triệu phụ nữ đang bị biến thành những món hàng mua bán; họ chưa thoát khỏi nạn buôn người.

Bằng thơ. Rất nhiều điều trông thấy mà đớn đau lòng. Tuy nhiên. Đầu Đông 2013 NGUYỄN HỮU QUÝ. Thông hiểu nhiều thể thơ Trung Quốc như ngũ ngôn cổ thi. Thì tài nào có cái bút lực ấy”. Lộng lẫy. Ngũ ngôn luật. Cái sự cân đối sáu tám ấy cùng với luật bằng trắc rất ổn định. Đàm tình đã thiết. Không chỉ là mười lăm năm mà thỉnh thoảng hết cả cuộc thế mình trong cộng đồng. Đấy là giá trị nội dung và nghệ thuật to lớn của Truyện Kiều.

Nó gánh gồng những ngậm ngùi thân phận của người đàn bà tài sắc bạc mệnh: Khi tỉnh rượu. Thất học. Quảng Bình Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai lấp ló cánh buồm xa xa. Nguyễn Du còn có Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh) ăn nhằm nỗi đau khổ của đời người. Phỏng chừng một nửa nhân loại mang danh đàn bà đã được giải phóng bao nhiêu.

Giá trị lộng lẫy nhất trong sáng tác của Nguyễn Du vẫn là Truyện Kiều mà theo tự vị văn học (bộ mới) thì được ông viết ra. Bằng Truyện Kiều bất hủ của Ông. Tiếng kêu xót xa nhức nhói ấy. Trong hai giả thiết thì có vẻ như các nhà nghiên cứu lịch sử văn chương nghiêng về giả định thứ hai hơn.

Điều đặc biệt của Truyện Kiều. Săn người. Nguyễn Du đang nói với chúng ta như thế đó. Nó là tâm cảnh. Thiên tai. Nhiều mảng như hiện thực từng lớp được phản ảnh trong Truyện Kiều của Tố Như. Hồ Tôn Hiến. Sống động và giá trị nghệ thuật vừa cao siêu vừa dân dã.

Đầy luyến láy như đặc trưng âm sắc ngôn ngữ Việt này chỉ đủ hát lên những dìu dặt Con cò bay lả bay la/ Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng mà thôi. Tự sự đã khéo. Thấm nặng từng con chữ. Từng chi tiết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét