Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Lưu Quang Vũ: Người “bình thường” cá biệt có sức cần lao nghệ thuật phi thường.

Vì đơn giản là Vũ yếu thế về mọi mặt, ngoài năng lực làm thơ, mà sở trường ấy không cần cho một tờ tùng san chuyên ngành

Lưu Quang Vũ: Người “bình thường” có sức lao động nghệ thuật phi thường

Và đó là điều nhiều năm qua tôi hằng nghĩ suy. Chẳng ai có thể biết hết mọi việc từ trước dù đó là những việc thông thường nhất như chuyên tình yêu (trích “Dĩ vãng phía trước”).

Trong giới còn tồn tại một giai thoại, khi thấy Vũ về tùng san sàn diễn, vốn là đồng đội ở cùng Binh chủng Phòng không - Không quân, nhà văn Đỗ Chu, trong một dịp trao đổi, với giọng kẻ cả, đã cổ vũ Vũ: “Viết văn thì có cầm, cậu cũng không thể viết hay bằng tớ, làm thơ cậu cũng khó vượt thằng Phạm Tiến Duật.

Cùng với thời kì, chúng ta hiểu hơn con người của nhà thơ Xuân Quỳnh. Có lẽ, đây cũng là thời gian Vũ bắt đầu có ý thức nghiên cứu học tập nghiêm túc về nghệ thuật mà đề nghị mưu sinh buộc anh phải gắn bó này. Đó là những năm cuối của chiến tranh chống Mỹ. Cậu chọn kịch khăng khăng thành công”.

Nhờ bà con địa phương mua hương hoa và rượu, về tắm rửa sơ qua và thay xống áo cho từng người. Cuối giờ chiều, nhận hung tin Vũ bị tai nạn, tôi cùng Tổng biên tập Xuân Trình và anh em ở cơ quan Hội và Tạp chí lao xe về Hải Dương.

Có thể xem đó là bức tranh thu hẹp các đặc điểm của sàn diễn Lưu Quang Vũ. Tôi còn nhớ, buổi giao ban ở cơ quan sáng thứ Hai ngày 28/8/1988, tôi nhắc biên tập viên Ngô Thế Ngọc (nay là Giám đốc Nhà xuất bản - Tổng biên tập tập san sân khấu) sang nhà đòi bản thảo tập sách “Chân dung diễn viên” mà Vũ đã ký giao kèo và tạm ứng tiền từ một năm trước.

Vũ tự nhận lỗi về mình và xin tự nuôi con trai trong một bức thư gửi cho người vợ diễn viên khi cô ấy đang đi làm phim. Theo tác giả và bạn bè, thơ mới là phần sáng tác thành công và được tác giả dành nhiều máu nóng nhất.

Và đó chính là đời sống. Năm 1965, khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ lan ra cả nước, mà ấn tượng trực tiếp nhất là việc Mỹ ném bom vào một hiệu thuốc Tây ở phố Huế ngay gần nhà, chưa tốt nghiệp lớp 10, Vũ đã khai man để đủ tuổi đi quân nhân. Các vở diễn sàn diễn như bộ ba “Bài ca giữ nước” của Tào Mạt; “Nhân danh công lý” của Võ Khắc Nghiêm - Doãn Hoàng Giang; “Mùa hè ở biển” của Xuân Trình; “Em đẹp dần trong mắt anh” của Tất Đạt và “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ không phải là con đẻ của không khí đổi mới mà là tác nhân dự hăng hái và trực diện vào không khí đổi mới của từng lớp.

Bao lăm sự kiện ngỡ là quan yếu, bao lăm nhân vật và tác phẩm được để ý một thì giờ đã chìm vào lãng quên. Trên xe, còn tính làm sao để báo tin này cho Xuân Quỳnh và liệu Xuân Quỳnh thu nhận tin này ra sao với trái tim đang bệnh nặng? Nhưng nỗi lo của chúng tôi là thừa, khi mà tới nơi, thấy Xuân Quỳnh và cháu Quỳnh Thơ đang nằm đắp chiếu bên triền ruộng chờ khám nghiệm hiện trường, còn Vũ mất trên đường đưa về Bệnh viện Hải Dương cấp cứu.

Cho đến ngày giải phóng năm 1975, Vũ vẫn lang thang tìm việc ở nhiều nơi, từng làm nhiều nghề, từ vẽ áp phích, chữa bản in sách, làm vợt bóng bàn ở xưởng ông Tạ Đình Đề… nhưng với lý lịch một anh lính bị loại ngũ, không tem phiếu, chưa có bằng tốt nghiệp phổ biến, không nơi nào có thể tiếp nhận chính thức. Thế mà trong có vài năm, cùng bài viết của Xuân Quỳnh, Vương Trí Nhàn, đã ra được một tập sách dày dặn về chân dung các nghệ sĩ - diễn viên sân khấu, mà không chỉ sàn diễn.

Chắc điều đó không ai phản bác được. 000 ngày oan trái)và “Điều không thể mất”.

Góp ý - sang sửa - lại góp ý - tu bổ nhiều lần để có một “Hồn Trương Ba - da Hàng Thịt” như hiện giờ. Đố kỵ, ghét ghen cũng có mà lập trường tư tưởng cũng có. Sau nhiều biến động về nhân sự, đến lượt nhà văn - nhà viết kịch Xuân Trình, vốn là biên tập viên lâu năm của Báo Văn Nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam được phân công đảm nhận tập san.

Cảnh trong vở "Hồn Trương Ba - da hàng thịt"  Những ngày cuối năm 1973, giới văn nghệ Hà Nội xốn xang về một sự kiện được coi là quá thất thường: Nữ sĩ Xuân Quỳnh yêu Lưu Quang Vũ.

Nhà văn    Ngô Thảo (   Năng lượng Mới số 256)  Có 12 vở diễn thuộc nhiều kịch chủng chèo, cải lương, kịch dân ca Huế, kịch nói dựng theo 9 kịch bản, trong đó đã có ba vở cùng lúc được hai đoàn dàn dựng là “Hồn Trương Ba - da Hàng thịt”, “Trái tim trong trắng” (tức 2.

Nhà văn    Ngô Thảo. Trong tình ái với Vũ có sự đắm đuối, nhưng cũng đầy tận tụy và chu đáo của một nữ giới có ý thức nghiêm cẩn về một gia đình không đơn giản, vì có cả con anh, con tôi, con chúng ta, Vũ lại có cả một gia đình còn ba má và khá đông đúc các em.

Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về văn chương nghệ thuật. Không có phòng lạnh, NSND Đình Quang, bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Văn hóa liên tưởng được với Bệnh viện Việt - Xô gửi nhờ để chờ tang lễ.

Nhưng với giới sàn diễn cả nước, thì chúng ta vừa mất đi một tác giả lớn, hàng chục đoàn đang dựng vở theo các kịch bản của anh.

Vũ còn có nhiều truyện ngắn, hàng trăm bài viết chân dung các diễn viên và nghệ sĩ khác rất đặc sắc, một phần đã được in thành sách.

Nhà thơ Bằng Việt cho rằng, trong việc này có một cái gì như một sự kiện chẳng thể hiểu nổi (Xuân Quỳnh hơn Lưu Quang Vũ 6 tuổi). Trong nhật ký ghi ngày 7/11/1973 của tôi còn có mấy dòng: Có một cái gì như quá đột ngột với nhiều người: Xuân Quỳnh yêu Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ: Người “bình thường” có sức lao động nghệ thuật phi thường

Phải 12 giờ đêm đó, xe chở tử thi họ mới về đến Bệnh viện Việt - Đức, nơi đang có hàng trăm nghệ sĩ sàn diễn nghe tin đau tới đón chờ. Khoảng trống anh để lại không có ai lấp được, nhưng không phải ai cũng đánh giá cao các vở diễn đó.

Gầm cầu thang nhà 96 phố Huế, nơi có căn buồng 10m2 của gia đình Vũ là nơi phục kích của nhiều trưởng đoàn các đơn vị ở địa phương xa. Còn hai mẹ con Xuân Quỳnh mặt mũi vẹn nguyên. Chuyến đi Đồ Sơn phối hợp nghỉ cuối tuần thực chất cũng là một chuyến đi để hoàn thành một kịch bản đã hẹn.

Mấy năm cuối đời, có thể nói, khi kinh tế gia đình đã được cải thiện ít nhiều, thì Vũ hầu như phải sống trong tình trạng lẩn tránh sự truy đuổi rốt ráo của các trưởng đoàn đòi kịch bản. Mà kịch bản sân khấu chỉ là một phần trong những sáng tác của tác giả mất ở tuổi 40 này. Chúng ta đều biết trong vòng 10 năm cuối đời anh viết được hơn 50 kịch bản, nhiều vở được nhiều đoàn nghệ thuật ở nhiều địa phương thuộc nhiều kịch chủng khác nhau cùng lúc dàn dựng.

Bởi dù rằng toàn bộ những sự không hoàn hảo của một con người, trong thời kì không dài lắm của một kiếp người, nhưng những sáng tạo cũng không phải hoàn hảo lắm của người nghệ sĩ đã góp vào làm giàu cho vốn văn nghệ của sơn hà, và trên những tác phẩm đó ghi rất rõ những dấu ấn mà thời đại chúng ta đã và đang sống”.

Riêng tác giả Lưu Quang Vũ có tên trên gần trăm panô giới thiệu tiết mục, bởi đó là một tác giả đang được khán giả cả nước mến mộ. Nhưng vốn tính sòng phẳng và thẳng thắn, Xuân Quỳnh thể hiện: Nếu anh yêu quý em thật lòng và mong em hạnh phúc thì anh phải giúp anh Vũ cho em, vì chính Vũ là hạnh phúc lớn nhất của đời em.

Rồi mặt trận và công việc thu hút đi hết người này đến người khác, còn trơ lại Vũ với vài người bạn. Cảnh trong vở "Điều không thể mất"  Nếu với đạo diễn Phạm tỉnh thành, Vũ được chú ý và phát triển về số lượng, thì đạo diễn Nguyễn Đình Nghi lại đặc biệt khuyên Vũ giao hội đầu tư về chất lượng. Đó là một thời kỳ huy hoàng của sàn diễn Việt Nam thời đương đại.

25 năm, 1/4 thế kỷ là một thời gian không ngắn. Nhiều năm, từ một chỉ thị ở đâu đó, thơ văn của Vũ tuyệt đối không sách báo nào được in. Cậu học trò thông minh và sớm miêu tả khiếu thơ ca này không phải là một học sinh mẫu mực.

Nghĩa là mỗi hoàng hôn có hàng ngàn người thuộc các thành phần trong gần trăm đơn vị nghệ thuật ấy náo nức chuẩn bị cho đêm diễn; hàng chục vạn khán giả phấn khởi tới các điểm diễn từ tỉnh thành tới nông thôn để buồn vui, khóc cười với các nhân vật là sản phẩm sáng tạo của chỉ một con người, mà đó là người “đương thời” của họ.

Nhiều người cũng nghĩ như thế, Xuân Quỳnh gặp nhiều người đều có ý lánh né, không đon đả, vui tươi hồn nhiên như vốn có… Và ai cũng nghĩ: Họ sẽ đi đến đâu? Họ có cưới nhau không? Cưới nhau rồi, có còn làm thơ hay được như trước không? Liệu có sống được với nhau đến ngày đầu bạc? Ở đâu cũng có hai câu trả lời trái ngược.

Nguyễn Đình Nghi từng hơi phiền lòng vì sự không “chung thủy” của Vũ trong quá trình sáng tác, nhưng khi càng lừng danh, Vũ càng không thể khắc phục tình trạng này. Vũ được sinh ra ở trên rừng Việt Bắc, nhưng về Hà Nội sau phóng thích 1954 mới bắt đầu đi học. Đêm đó, sau khi cùng đông đảo bằng hữu đưa họ vào nhà xác Bệnh viện Việt - Xô, tôi được NSND Dương Ngọc Đức, Tổng thư ký Hội giao việc thảo điếu văn.

Là người có tính cả nể, không nỡ chối từ ai, mà thời kì và sức lực có hạn, cho đến những ngày cuối đời, Vũ vẫn là một con nợ lớn với nhiều đơn vị sân khấu. Ngoài ra, rất nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích như: “Và anh tồn tại”, “Tiếng Việt”, “Vườn trong phố”, “Bầy ong trong đêm sâu”.

Nhưng những gì diễn ra trong chiến tranh và trong đời sống nghiêm khắc của quân đội thời chiến, lại ở một đơn vị cần một kỷ luật thép là phòng không - không quân, với một anh lính trẻ lại dính vào chuyện yêu đương, rồi sớm lập gia đình với một diễn viên trẻ xinh đẹp đang hồi nổi danh làm nảy ra sao là những chuyện phiền toái, mà dẫu có rộng lượng thông cảm, thì đề nghị của chiến tranh và quân đội đã buộc phải đánh bật thi sĩ trẻ ra khỏi quân ngũ, không phải vì sút kém ý chí chống chọi, vì lập trường tư tưởng, mà chỉ đơn giản là vi phạm kỷ luật nội vụ quá nhiều lần của đơn vị.

Sách vở gia đình là một nguồn lương thực ý thức quý vô giá nhưng cũng chẳng thể lấp được khoảng trống có thực trong cái dạ dày bé nhỏ hằng ngày thường trực réo gọi. Giờ chỉ còn có kịch là trong cánh ta chưa có ai. Rồi những cuộc rượu nhạt, trà suông của đám bạn văn chương Đào Trọng Khánh, Lâm Râu, Nguyễn Khắc Phục, Lâm Quang Ngọc, Trần Kim Thành, Thanh Tùng… yên ủi động viên nhau cũng nhiều, mà phiền hà làm buồn lòng nhau cũng không ít.

Việc tưởng đơn giản mà không dễ chút nào. Điều đó giảng nghĩa tại sao, ngay trong những năm tháng này thơ Vũ viết vẫn tràn ngập lòng yêu nước dẫu nhiều, rất nhiều trăn trở, day dứt trước một hiện thực diễn ra không như trong sách vở từng đọc. Hàng chục năm sau khi Vũ mất, đọc ở đâu đó một câu nói của F. Lưu Quang Vũ được sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn học.

Xuân Quỳnh thành một vệ sĩ đáo để vây bọc và giấu cho Vũ tìm nơi trú ẩn để tụ tập cày kịch bản. Hằng đêm, khán giả cả nước hào hứng tới các điểm diễn sân khấu.

Vợ chồng ông Lưu Quang Thuận đang là cán bộ văn phòng Hội sân khấu nhưng cũng không thể mở lời xin cho con, vì so với tiêu chuẩn tối thiếu của một cán bộ Nhà nước, dẫu là thuộc hội, thì Vũ không đạt bất cứ đề nghị nào: Từ học vấn, nhân cách, lý lịch công tác… Theo câu chuyện đáng tin cậy của vài người bạn thân thiết dạo ấy, nhà văn Xuân Trình là một người hào sảng, khá hào phóng, từng có vài mối tình với các nữ sĩ trong giới

Lưu Quang Vũ: Người “bình thường” có sức lao động nghệ thuật phi thường

Là một nhà phê bình thơ có uy tín lớn, không mấy khi quan tâm đến lớp làm thơ trẻ, mà thơ Vũ đã lọt cặp mắt tinh tường của nhà phê bình Hoài Thanh. Xinh đẹp, tài tình, là một nghệ sĩ múa, không được học hành chu đáo, nhưng là một hồn thơ nhiệt liệt, tinh tế với sức sáng tạo dai sức.

Ông còn là tác giả của nhiều truyện ngắn mang đậm phong cách riêng. Con đường cũng không dễ dàng. Tôi đã chọn ra hình tượng: Lưu Quang Vũ là một người lao động nghệ thuật lực lưỡng gồng trên đôi vai rộng khỏe của mình tiết mục của hơn 50 đoàn sân khấu trong cả nước. Bởi có hàng trăm đoàn nghệ thuật trong cả nước tìm về xin kịch bản của anh, sẵn sàng xin dựng lại các kịch bản đã có rồi xin kịch bản mới.

Lưu Quang Vũ   Cả nước năm 1985 còn có 156 đơn vị sàn diễn thuộc đủ các kịch chủng. Những vở kịch trước nhất, các đạo diễn Phạm thành thị, Nguyễn Đình Nghi, Doãn Hoàng Giang, rồi Xuân Huyền, Lê Hùng… đã phải trực tiếp tu sửa khá nhiều. Giới sân khấu, mà không chỉ giới sàn diễn đã tổ chức một đám tang trang trọng và cảm động để hoẵng đôi nghệ sĩ tài ba cùng con chung của họ về nơi an nghỉ chung trong Khu A tha ma Văn Điển.

Rất nhiều các tác phẩm của Lưu Quang Vũ đã làm sôi động sàn diễn Việt Nam như: “Hồn Trương Ba - da hàng thịt”, “Lời thề thứ 9”, “Bệnh sĩ”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Ông không phải bố tôi”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”, “Nàng Sita” và được trao tặng Huy chương Vàng ở nhiều hội diễn sàn diễn. Cho đến nay trong hồ sơ đã và đang đăng ký xét NSND, NSƯT của hàng trăm nghệ sĩ có ghi tên các nhân vật trong kịch Lưu Quang Vũ mà họ từng diễn rất thành công.

Mối tình mới với Nguyễn Thị Hiền, cô bạn họa sĩ tài ba với nhiều phen hò hẹn hồi hộp nhưng hình như không nhận được nhiều sự ủng hộ của người thân, nên không tiến được đến một gia đình. Các tác phẩm của Lưu Quang Vũ: Tập thơ “Hương cây” (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập “Hương cây - Bếp lửa”), “Mây trắng của đời tôi” (1989), “Bầy ong trong đêm sâu” (1993).

Mà có nhẽ nhờ thế, nhiều năm sau họ còn nhớ đến nhau với những ấn tượng và kỷ niệm đẹp. Xuân Quỳnh, cùng làm việc ở báo Văn Nghệ cũng là người trong tầm ngắm của nhà văn. Trong lãnh đạo các cấp và trong nội bộ cơ quan, phản ứng còn mạnh hơn, vì những gì thuộc về Vũ được đánh giá là một người dười mức nhàng nhàng, không được là người thường nhật, mà nói trắng ra là thuộc loại tầm thường.

Vết thương ở Vũ nặng hơn. Buổi đầu, dưới các bài viết giới thiệu chân dung các nghệ sĩ, các vở diễn phải ký các bút danh, hay chỉ một chữ V. Ấy Thế mà, vượt qua tuốt tuột mọi trở lực, bằng sự cố bản thân, với vốn sống, những tích lũy ngẫm nghĩ từ nhiều năm tháng lăn lóc nơi đáy cùng tận của cuộc sống, với vốn văn hóa tích lũy từ sức đọc nhiều năm và coi nó như một liều thuốc, như một thứ lương thực vật chất để lấp đầy sự trống thiếu của đời sống thực tiễn, Vũ bắt đầu viết báo về sân khấu.

Với hồn thơ phất phới của tuổi 17, với chí lớn được nung đúc qua hàng trăm cuốn truyện hay nhiều thời, nhiều xứ, được giới thiệu trong những năm hòa bình đẹp đẽ ở thủ đô, Vũ đã có nhiều bài thơ được in và nhận được sự đánh giá cao của dư luận chính thống đương thời.

Thế mà một đợt liên hoan có hơn mười đơn vị tham dự, mà đó chưa phải đã là tuốt những vở đặc sắc của tác giả, mách bảo rằng, những sáng tạo của Lưu Quang Vũ vẫn còn có nhựa sống vượt thời kì.

Ông Lưu Quang Thuận thân sinh của anh là một nhà văn, một nhà hoạt động về văn hóa và tham dự tích cực vào các hoạt động sân khấu. Về mặt hành chính, Lưu Quang Vũ mới chỉ cán sự ba, với một tiểu sử không mấy sáng sủa. Là một đấng lang quân thứ thiệt, Xuân Trình đã góp sức đắc lực cho việc nhận Vũ vào Tạp chí sân khấu vốn còn ít người. Hai người đang sống với nhau những ngày đầu của một ái tình còn lại: Anh bỏ vợ, chị cũng đã chia tay chồng.

Rồi tình yêu sau những ngày tháng mặn nồng, khi đối diện với một thực tế trần trụi, chuyện cơm áo, gạo tiền thời tem phiếu ngặt nghèo, tình cảm biến động, càng gần về cự ly lại càng thấy xa vắng về tâm hồn, mối tình mở màn đẹp như mơ đã tan như quả bóng vỡ khi va đập với đời sống thực.

Lưu Quang Vũ cũng là người trước hết trong lớp chống Mỹ được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Bị đánh bật ra khỏi mọi tổ chức, khi mọi công dân phải được sắp xếp trong một đội hình khăng khăng, chàng trai ngoài 20 tuổi, mơ mộng và yếu đuối, sống những năm tháng nhọc nhằn, tủi nhục.

Không biết có bao lăm sự thật trong giai thoại đó, nhưng chỉ trong vòng vài năm Vũ đã thành một nhà viết kịch thực sự. Thời gian càng làm sáng lên những giá trị mà Lưu Quang Vũ đã sáng tạo trong cuộc thế không dài, không có nhiều tiện lợi, không được chuẩn bị chu đáo của mình.

Phải mấy năm sau ngày phóng thích, năm 1977, Hội sân khấu Việt Nam xin phép xuất bản tờ Tạp chí sàn diễn, cơ quan ngôn luận của Hội. Một công việc hoàn toàn không dễ dàng hồi bấy giờ. Mitteran, nhà văn hóa, nguyên Tổng thống Pháp: “Lang bang và phóng túng là bản tính của nghệ sĩ, tôi mới nghiệm ra, Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đích thực.

Một nhóm bạn bè vừa say lý tưởng sách vở vừa có phần bất khoái trá trước hiện thực khó khăn, khi cuộc chiến lâu dài, làm biểu đạt ngày một nhiều những hiện tượng thụ động.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét